Chính sách tiền tệ là gì? Chính sách tiền tệ rất quan trọng cho quản lý kinh tế của một đất nước. Để giữ cho tài chính ổn định và kích thích sự phát triển kinh tế, mỗi quốc gia cần có chính sách tiền tệ. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về ý nghĩa của chính sách tiền tệ và cách nó ảnh hưởng đến một quốc gia.
Chính sách tiền tệ là gì?
Chính sách tiền tệ là cách chúng ta sử dụng các công cụ tín dụng và ngoại hối để ổn định tiền tệ, giúp nền kinh tế phát triển. Ngân hàng Trung ương là cơ quan thực hiện chính sách tiền tệ để ổn định giá cả, tăng trưởng GDP và giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ và lượng tiền trong nền kinh tế, là công cụ giúp Chính phủ duy trì kinh tế.
Hệ thống Dự trữ Liên bang ảnh hưởng đến giá cả và sức mua của tiền, giúp phát triển kinh tế, bảo vệ việc làm, ổn định giá cả và cân nhắc về thương mại với các nước khác.
FED, dựa trên quyết định chính sách tiền tệ, cố gắng kiểm soát lãi suất và lượng tiền trong nền kinh tế. Chính sách tiền tệ được thực hiện bởi Ủy ban Dự trữ Liên bang và Ủy ban thị trường mở Liên bang, gồm 12 thành viên, điều khiển giao dịch chứng khoán của Chính phủ trên thị trường mở cho 12 Ngân hàng Dự trữ Liên bang. Chủ tịch Ủy ban Dự trữ Liên bang sẽ báo cáo với Ủy ban Quốc hội hai lần trong năm, tháng Hai và tháng Bảy, về chính sách tiền tệ.
Dự trữ Liên bang tuân thủ Đạo luật Humphrey – Hawkins năm 1978, theo dõi chặt chẽ các chỉ báo về điều chỉnh chính sách tiền tệ.
Đặc điểm chính sách tiền tệ là gì?
Chính sách tiền tệ có thể có những đặc điểm như thắt chặt hoặc nới lỏng tín dụng.
Khi FED lo sợ rằng nền kinh tế đang tăng trưởng quá nhanh hoặc giá cả tăng quá nhanh, họ sẽ bán chứng khoán chính phủ để giảm các vị thế dự trữ. Đây được gọi là rút nguồn dự trữ.
Ngược lại, khi FED nhận thấy rằng nền kinh tế đang phát triển chậm hơn bình thường hoặc có nguy cơ suy thoái, họ có thể mua chứng khoán từ các sàn giao dịch để tăng nguồn cung dự trữ trong hệ thống ngân hàng. Bằng cách mua chứng khoán thay vì bán chúng, FED mở rộng nguồn cung dự trữ ngân hàng, giúp các ngân hàng dễ dàng đáp ứng yêu cầu về dự trữ và cung cấp khoản vay mới.
Ngoài chính sách tiền tệ, FED còn áp dụng một số biện pháp kiểm soát tín dụng để điều chỉnh chi phí tín dụng. Những biện pháp này bao gồm yêu cầu ký quỹ cho chứng khoán mua qua sàn giao dịch, nhà giao dịch và mức độ thuyết phục cao. Qua đó, FED cố gắng thuyết phục các ngân hàng tuân thủ các khuyến nghị của FED thông qua áp lực gián tiếp.
Mặc dù chính sách tiền tệ khác với chính sách tài khóa (quy định bởi chính phủ liên bang thông qua chính sách chi tiêu và thuế), nhưng cả hai cùng nhằm đạt một mục tiêu chung: cân bằng cầu và cung trong nền kinh tế (được đo bằng tổng sản phẩm quốc nội, việc làm và lãi suất), để kiểm soát lạm phát và thất nghiệp.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ là gì?
Kiểm soát lạm phát và ổn định giá cả
Các ngân hàng trung ương có thể ảnh hưởng đến giá trị đồng tiền thông qua chính sách tiền tệ. Có hai cách để đánh giá giá trị đồng tiền ổn định, đó là sức mua trong nước (giá của hàng hóa và dịch vụ trong nước) và sức mua bên ngoài (tỷ giá đồng tiền nội tệ so với ngoại tệ).
Tuy nhiên, chính sách tiền tệ được thực thi với mục tiêu làm ổn định giá trị đồng tiền, nhưng không đảm bảo không có lạm phát, và điều này có thể khiến kinh tế không được phát triển. Trong tình hình kinh tế phát triển chậm, việc duy trì mức lạm phát ở mức hợp lý (thường là một con số) sẽ giúp thúc đẩy kinh tế phục hồi.
Tạo công ăn việc làm, hạn chế tỷ lệ thất nghiệp
Chính sách tiền tệ có thể ảnh hưởng trực tiếp đến cách sử dụng nguồn nhân lực xã hội, quy mô sản xuất và tỷ lệ thất nghiệp của một quốc gia. Để giảm tỷ lệ thất nghiệp, ta cần kiểm soát mức tăng lạm phát.
Phát triển kinh tế
Mục tiêu của chính phủ các nước luôn là tăng cường phát triển kinh tế. Điều này bao gồm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế và ổn định giá trị đồng tiền. Đây là cách để người dân tin tưởng chính phủ. Để đạt được mục tiêu này, cần phải cùng lúc thực hiện cả hai mục tiêu. Hai mục tiêu này có mối liên kết chặt chẽ và không thể tách rời.
Tuy nhiên, trong thời gian ngắn, hai mục tiêu này có thể mâu thuẫn hoặc xung đột với nhau. Do đó, để thực hiện những phương án cụ thể, Ngân hàng Trung ương cần phối hợp với các chính sách kinh tế khác trong khi thực hiện chính sách tiền tệ. Hầu hết các Ngân hàng Trung ương coi ổn định giá cả là mục tiêu chính và lâu dài cho chính sách tiền tệ.
Các công cụ chính sách tiền tệ là gì?
Chúng ta đã hiểu khái niệm chính sách tiền tệ là gì, vậy công cụ trong chính sách tiền tệ sẽ bao gồm những gì? FED có 3 công cụ riêng trong chính sách tiền tệ: mua và bán chứng khoán trên thị trường mở, quyền yêu cầu các tổ chức tài chính giữ dự trữ và tỷ lệ chiết khấu ngân hàng và tổ chức tài chính trả khi vay từ Ngân hàng Dự trữ Liên bang khu vực.
Chính sách tiền tệ bao gồm 6 công cụ chính sau đây:
Công cụ tái cấp vốn
Công cụ này là hình thức cấp tiền của Ngân hàng Trung ương cho các ngân hàng thương mại. Việc này giúp tăng cung tiền và cho phép các ngân hàng thương mại tạo ra tiền và có khả năng thanh toán.
Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Đây là tỷ lệ giữa số tiền phải được giữ lại và tổng số tiền gửi mà ngân hàng thương mại nhận được. Điều này ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và việc cho vay của ngân hàng thương mại.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Đây là hoạt động của Ngân hàng Trung ương mua và bán các giấy tờ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ. Điều này ảnh hưởng đến số dư tiền gửi của các ngân hàng thương mại và khả năng cho vay của chúng, và từ đó tác động đến lượng tiền tệ trong nền kinh tế.
Công cụ lãi suất tín dụng
Đây là công cụ gián tiếp để thực thi chính sách tiền tệ. Sự điều chỉnh lãi suất ảnh hưởng đến lượng tiền trong lưu thông và có thể kích thích hoặc kìm hãm sản xuất.
Công cụ hạn mức tín dụng
Đây là công cụ trực tiếp để Ngân hàng Trung ương kiểm soát việc tăng hạn mức cho vay của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là giới hạn cao nhất mà ngân hàng thương mại phải tuân thủ khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là sức mua tương đối giữa đồng tiền trong nước và đồng tiền ngoại quốc. Nó không chỉ thể hiện sức mua của đồng tiền trong nước mà còn phản ánh sự cung cầu tiền tệ ngoại hối. Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu và hoạt động kinh doanh trong nước.
Chính sách tiền tệ ảnh hưởng tới sản xuất hàng hóa, xuất nhập khẩu, tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán, thu hút vốn đầu tư, dự trữ quốc gia,… Tỷ giá hối đoái không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì nó không thay đổi lượng tiền trong lưu thông. Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia có nền kinh tế đang chuyển đổi, tỷ giá hối đoái được coi là công cụ hỗ trợ trong chính sách tiền tệ.
Tác động của chính sách tiền tệ tại Việt Nam
Các số liệu thu thập được
Theo thông tin từ tổ chức Oxfam năm 2017, tại Việt Nam từ năm 1992 đến năm 2012, tỷ lệ chênh lệch Palma (tỷ lệ giữa thu nhập nhóm 10% cao nhất so với nhóm 40% thấp nhất) đã tăng 17%, từ 1,48 ( năm 1992) lên 1,74 (năm 2012). Điều này chỉ ra rằng khoảng cách giữa hai nhóm này đang ngày càng mở rộng.
Theo tiêu chuẩn quốc tế, các hộ gia đình được chia làm 5 tầng lớp kinh tế dựa trên mức tiêu dùng hàng ngày, bao gồm:
(1) Nhóm người cực kỳ nghèo, có chi phí sinh hoạt hàng ngày dưới 1,9 USD.
(2) Nhóm nghèo trung bình, chi phí sinh hoạt hàng ngày từ 1,9 – 3,2 USD;
(3) Nhóm kinh tế khó khăn, mức tiêu dùng hàng ngày 3,2-5,5 USD;
(4) Nhóm an toàn kinh tế, mức tiêu dùng hàng ngày 5,5-15 USD;
(5) Nhóm trung lưu toàn cầu, mức tiêu dùng hàng ngày trên 15 USD.
Sự bất bình đẳng thu nhập cũng được thể hiện qua khoảng cách thu nhập giữa nhóm nghèo cùng cực và nhóm trung lưu toàn cầu. Năm 2016, thu nhập bình quân đầu người của nhóm nghèo cùng cực là 791.000 đồng, tăng bình quân 5,7% từ năm 2016 đến năm 2019; còn nhóm trung lưu toàn cầu là 7,8 triệu đồng, tăng cao hơn 6,8%, làm cho thu nhập của nhóm trung lưu toàn cầu năm 2016 so với nhóm nghèo cùng cực còn chênh lệch gấp 9,8 lần và năm 2019 chênh lệch gấp 10,2 lần.
Tuy nhiên, vào năm 2020, do ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch Covid-19 và hiệu quả của các chính sách an sinh xã hội đối với người nghèo, lao động thất nghiệp và gia đình chính sách, nhóm thu nhập thấp đã tăng lên 7,6% trong giai đoạn 2016 – 2020, nhanh hơn mức tăng 3,3% của nhóm thu nhập cao nhất. Điều này đã dẫn đến chênh lệch thu nhập giữa hai nhóm này còn 8 lần.
Theo số liệu từ Ngân hàng Thế giới (2018), sự bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam đang gia tăng trong thời gian gần đây và thường xuất hiện ở khu vực nông thôn, hệ số Gini tăng 0,8 điểm, trong khi không có thay đổi đáng kể về bất bình đẳng ở khu vực thành thị. Từ năm 2002 đến năm 2010, sự chênh lệch thu nhập giữa nhóm 5 và nhóm 1 ở khu vực nông thôn thấp hơn khu vực thành thị là 5,97 lần.
Tuy nhiên, từ năm 2012 đến năm 2016, sự chênh lệch tăng lên 8,39 lần, cao hơn so với khu vực thành thị. Chênh lệch tuyệt đối giữa thu nhập của hai nhóm cũng mở rộng từ 703.800 đồng lên 4,993 triệu đồng.
Ngoài ra, nhóm 5 cũng có tốc độ tăng thu nhập bình quân hàng năm cao nhất (40,7%), trong khi nhóm 1 chỉ có tốc độ tăng thấp nhất (33,4%). Điều này cho thấy sự bất bình đẳng thu nhập gia tăng ở khu vực nông thôn là một yếu tố quan trọng làm gia tăng bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam.
Chính sách tiền tệ được áp dụng
Qua nghiên cứu, ngoài việc ổn định giá trị tiền tệ, chính sách tiền tệ còn ảnh hưởng đến sự bất bình đẳng về thu nhập của xã hội. Gần đây, khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách tăng tốc độ cung tiền, bất bình đẳng thu nhập có thể giảm trong thời gian ngắn từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2020. Nhưng từ tháng 6 năm 2020 trở đi, hiệu ứng này gần như biến mất. Ngược lại, chính sách tiền tệ thắt chặt có thể tăng bất bình đẳng thu nhập trong ngắn hạn.
Có nhiều biện pháp mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể thực hiện để hỗ trợ người nghèo và nhóm thu nhập thấp, bao gồm: cần sửa đổi Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 để giảm bất bình đẳng thu nhập; điều chỉnh lãi suất linh hoạt, hạ lãi suất vốn vay để khuyến khích sản xuất và tăng tỷ lệ việc làm trong nước.
Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cần hướng dẫn các tổ chức tín dụng tập trung nguồn vốn và thúc đẩy cho vay nông nghiệp, nông thôn tổng thể. Hơn nữa, cần triển khai các dự án tín dụng đặc biệt như cho vay nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hỗ trợ giảm tổn thất nông nghiệp, mở rộng tín dụng lúa gạo và thủy sản, hướng đến các địa bàn chưa có mạng lưới ngân hàng.
Ngoài ra, cần tiếp tục hỗ trợ nguồn vốn và khuyến khích tổ chức tín dụng cho vay nông nghiệp, nông thôn trên tinh thần bình đẳng. Cần cũng cố phát triển tài chính vi mô và triển khai các dự án tín dụng chính sách của các ngân hàng chính sách xã hội.
Chính sách tiền tệ phải hướng đến giảm bất bình đẳng thu nhập thông qua việc kết hợp chính sách tài khóa, tiền lương và tiền tệ. Điều này giúp ổn định quan hệ cung cầu trong nền kinh tế và tránh tác động kinh tế lên giá các hàng hóa quan trọng. Đồng thời, giúp cải thiện phân chia nguồn lực lao động và thúc đẩy sự phát triển kinh tế quốc gia ở mọi lĩnh vực và ngành nghề.
Tóm lại, chính sách tiền tệ là một công cụ quan trọng mà Ngân hàng Trung ương sử dụng để kiểm soát và thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Nó được thực hiện thông qua kiểm soát lạm phát, tác động lãi suất và thị trường tài chính. Hiểu về khái niệm này giúp ta có cái nhìn sâu sắc về thị trường kinh tế.